Cà Phê Và Kỹ Thuật Sản Xuất Cà Phê – P7

1.   3 Quá trình phát triển và phân bố cà phê của thế giới và Việt Nam:

Abissinia là nước có lịch sử lợi dụng cây c à phê từ rất lâu đời. Người địa phương ban đầu vào rừng chặt cây cà phê về uống và dần dần nó đã trở thành một nguồn giải quyết nước uống chủ yếu của nhân dân vùng này.

Cà phê từ Ả rập tràn sang Thổ Nhĩ Kỳ năm 1554, Syria năm 1573, năm 1600 chuyển sang Châu Âu (Ý, Anh, Pháp). Ngoài ra, cà phê còn phát tri ển theo một con đường khác qua Ấn Độ năm 1600. Năm 1614, ng ười Hà Lan từ cảng Macha của Ả rập lấy hạt và đưa cây con về Hà Lan. Đến năm 1658, người Hà Lan chuyển cà phê tới Tích Lan.

Năm 1868, trận dịch Himelia Vactatrix phát triển ghê gớm là cho giống cà phê chè (Arabica) khó phát triển ở những xứ ẩm, do đó người ta đã nghiên cứu và tìm ra một số giống cà phê khác để thay thế như cà phê C.Canephora Robusta, C.Liberica mọc hoang dại ở những miền rừng nóng ẩm ở Châu Phi, C.Excelsa Charri năm 1902…

Cuối thế kỉ 18, cà phê phát triển khắp các vùng nhiệt đới, Á nhiệt đới thuộc Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu mỹ.năng suất bình quân cà phê chè khoảng 4 -5tạ/ha, cà phê vối 5 – 6 tạ/ha

Ở Việt Nam, cây cà phê chè được trồng đầu tiên Năm 1870 ở Kẻ Sở (Hà Nam) do các nhà truyền đạo công giáo mang đến . Năm 1857 trồng ở Quảng Trị và Bố Trạch (Quảng bình) . Năm 1888, thực dân Pháp đã thành lập các đồn điền cà phê ở Nghệ An, Quảng Trị,… Các đồn điền trồng c à phê lớn mọc lên ở Ngàn Trươi, Ngàn Phố, Ngàn Sâu – Hà Tĩnh(1910),Yên Mỹ – Thanh Hóa(1911), Nghĩa Đàn – Nghệ An(1913) cũng trong thời gian n ày , xuất hiện một ssố vùng trồng cà phê lẻ tẻ ở Lai châu , Thuận châu , Mai châu , Hà giang …. Đến năm 1925- 1926, khi khai phá vùng đất bazan phì nhiêu ở Tây Nguyên, người Pháp đã đưa cây cà phê trồng vùng đất đỏ Tây nguyên. Năm 1930, diện tích cây cà phê ở Việt Nam đạt điểm cao nhất tr ước chiến tranh là 10.700 ha, trong đó ở Bắc Bộ 4.100 ha, ở Trung Bộ 5.900 ha, Nam Bộ 700 ha. năng suất cà phê chè khoảng 4 -5tạ/ha, cà phê vối 5 – 6 tạ/ha

Trong thời gian chiến tranh tình hình sản xuất cà phê có nhiều biến đổi. Ở miền Bắc các nông trường duy trì sản xuất ngay cả những năm chiến tranh ác liệt. Nhưng do quy hoạch trồng cà phê không đúng đắn ngay từ đầu, nên nhiều nông trường được thiết lập sau này phải thanh lý. Ở miền nam sau năm 1968, do chiến tranh nhiều vùng phải bỏ hoang, đến năm 1973 chỉ còn 8872 ha, năm 1975 khoảng 10.000 ha, phần lớn cà phê sản xuất ra được tiêu dùng nội địa.

Sau ngày giải phóng miền Nam ( Sau 4/1975) ngành cà phê ở giai đoạn phát triển chưa từng có, chỉ trong hai năm 1978 -1979 , tỉnh Đắc Lắc đã phát động phong trào trồng được 6.000 ha cà phê tạo khí thế mạnh và quyết tâm cao. Nhưng do chưa chuẩn bị chu đáo, thiếu tr ình độ chuyên môn nên đã gặp nhiều khó khăn, không lâu sau đó một diện tích lớn cà phê bị hủy bỏ, số còn lại còi cọc, không hiệu quả.

Vào thập kỉ 80, chính phủ ta đã kí hàng loạt hiệp định hợp tác sản xuất cà phê với Liên Xô (cũ), CHLB Đức, Bungari, Tiệp Khắc, Balan đã tạo điều kiện cho cà phê có vốn đầu tư, thiết bị để bước vào thời kì phát triển mới. Từ cả nước chỉ có trên 10.000 ha cà phê, sản lượng hàng năm không quá 5.000 t ấn thì đến năm 1994, cả nước đã đạt đến 123.800 ha, với sản lượng 166.457 tấn cà phê nhân, đạt năng suất bình quân trong cả nước 16,7 tạ/ha cà phê nhân khô. Xuất khẩu cà phê nhân gần 300 triệu USD. Năm 1995, sản l ượng 15.000 tấn, xuất khẩu 500 triệu USD. Ngày 26/03/1991, Việt Nam đã chính thức gia nhập làm thành viên chính thức của tổ chức quốc tế c à phê (ICO). Và đến nay Việt Nam đã xuất khẩu đạt tầm 3,5 tỷ USD.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

?>